Language:

Hướng dẫn - Giải đáp

Công văn số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07-4-2017 giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ trong xét xử

Luật sư Nguyễn Văn Đồng và Luật sư Hà Thị Khuyên, Văn phòng Luật sư Nhân Chính giới thiệu Công văn số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ trong xét xử. Trong thời gian chuẩn bị và tại Hội nghị triển khai công tác Tòa án năm 2017 (từ ngày 12 đến ngày 14-01-2017) các Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp đề nghị Tòa án nhân dân tối cao giải đáp một số vấn đề vướng mắc về nghiệp vụ. Sau đây là giải đáp của Tòa án nhân dân tối cao.

Công văn số 163/TANDTC-PC ngày 10-9-2024 giải đáp vướng mắc trong xét xử

Luật sư Nguyễn Văn Đồng và Luật sư Hà Thị Khuyên, Văn phòng Luật sư Nhân Chính giới thiệu Công văn số 163/TANDTC-PC ngày 10-9-2024 giải đáp vướng mắc trong xét xử. Qua công tác tổng kết thực tiễn xét xử, Tòa án nhân dân tối cao nhận được phản ánh của các Tòa án về một số vướng mắc khi giải quyết các vụ việc. Để bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật, Tòa án nhân dân tối cao ban hành Công văn số 163/TANDTC-PC để giải đáp các vướng mắc

Quy chế quản lý, sử dụng nhà chung cư ban hành kèm Thông tư số 05/2024/TT-BXD

Luật sư Nguyễn Văn Đồng và Luật sư Hà Thị Khuyên, Văn phòng Luật sư Nhân Chính giới thiệu Quy chế quản lý, sử dụng nhà chung cư ban hành kèm Thông tư số 05/2024/TT-BXD. Quy chế này áp dụng đối với nhà chung cư được đầu tư xây dựng với mục đích để ở và nhà chung cư có mục đích sử dụng hỗn hợp dùng để ở và sử dụng vào các mục đích khác (trong đó có căn hộ dùng để ở, căn hộ dùng làm cơ sở lưu trú du lịch theo quy định của pháp luật du lịch, công trình dịch vụ, thương mại, văn phòng và các công trình khác), nhà ở nhiều tầng nhiều căn hộ theo quy định của Luật Nhà ở số 27/2023/QH15 (sau đây gọi chung là Luật Nhà ở).

Hệ thống văn bản quy phạm điều chỉnh Bảng giá đất của 63 tỉnh, thành phố mới nhất

Luật sư Nguyễn Văn Đồng và Luật sư Hà Thị Khuyên, Văn phòng Luật sư Nhân Chính nêu rõ hệ thống văn bản quy phạm điều chỉnh Bảng giá đất của 63 tỉnh, thành phố mới nhất. Theo khoản 2 Điều 114 Luật Đất đai 2013 thì bảng giá đất được sử dụng để làm căn cứ trong các trường hợp sau đây: Tính tiền sử dụng đất khi:  Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất ở của hộ gia đình, cá nhân đối với phần diện tích trong hạn mức; Nhà nước cho phép chuyển mục đích sử dụng đất từ đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp không phải là đất ở sang đất ở đối với phần diện tích trong hạn mức giao đất ở cho hộ gia đình, cá nhân; Tính tiền sử dụng đất khi:  Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất ở của hộ gia đình, cá nhân đối với phần diện tích trong hạn mức; Nhà nước cho phép chuyển mục đích sử dụng đất từ đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp không phải là đất ở sang đất ở đối với phần diện tích trong hạn mức giao đất ở cho hộ gia đình, cá nhân; Tính thuế sử dụng đất; Tính phí và lệ phí trong quản lý, sử dụng đất đai; Tính tiền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai; Tính tiền bồi thường cho Nhà nước khi gây thiệt hại trong quản lý và sử dụng đất đai; Tính giá trị quyền sử dụng đất để trả cho người tự nguyện trả lại đất cho Nhà nước đối với trường hợp đất trả lại là đất Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, công nhận quyền sử dụng đất có thu tiền sử dụng đất, đất thuê trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê.

Tranh chấp quyền sử dụng đất nhưng đất đó xuất phát từ hợp đồng hoặc yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

Luật sư Nguyễn Văn Đồng và Luật sư Hà Thị Khuyên, Văn phòng Luật sư Nhân Chính cho biết trường hợp tranh chấp quyền sử dụng đất nhưng đất đó xuất phát từ hợp đồng hoặc yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Điểm 2 Mục II Công văn số 64/TANDTC-PC ngày 03/4/2019 của TANDTC có nội dung: “...việc cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc xác nhận nội dung biến động trong trường hợp thực hiện hợp đồng (các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 105 của Luật Đất đai) là thủ tục hành chính trong giao dịch dân sự, không mang tính chất của quyết định hành chính cá biệt...Cho nên, khi giải quyết tranh chấp về hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất mà hợp đồng đó bị vô hiệu, nhưng người nhận chuyển quyền đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc đã được xác nhận nội dung biến động thì không đưa cơ quan có thẩm quyền trong việc cấp giấy tham gia tố tụng và không cần phải tuyên hủy giấy chứng nhận cấp cho người nhận chuyển nhượng”. Như vậy, trong vụ án tranh chấp về hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất, có yêu cầu huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp trên cơ sở kết quả giao dịch có hiệu lực hoặc yêu cầu huỷ xác nhận biến động trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì TANDTC cho rằng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, xác nhận biến động trong trường hợp này không phải là quyết định hành chính cá biệt, do đó, các Toà án cấp dưới không xác định thuộc thẩm quyền TAND cấp tỉnh theo khoản 4 Điều 34 BLTTDS.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến sau khi người tham gia tố tụng phát biểu tranh luận và đối đáp xong

Luật sư Nguyễn Văn Đồng và Luật sư Hà Thị Khuyên, Văn phòng Luật sư Nhân Chính cho biết kiểm sát viên phát biểu ý kiến sau khi người tham gia tố tụng phát biểu tranh luận và đối đáp xong. Trong tố tụng dân sự, Kiểm sát viên kiểm sát việc tuân theo pháp luật của của Tòa án, người tiến hành tố tụng của Tòa án, người tham gia tố tụng và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Kiểm sát viên không đại diện bảo vệ quyền, lợi ích của bên nào trong các bên tranh chấp nên không thực hiện tranh tụng với các bên, việc đối đáp của đương sự đối với phát biểu của Kiểm sát viên là không cần thiết.

Tòa án có trách nhiệm xác minh, thu thập chứng cứ theo yêu cầu của kiểm sát viên

Luật sư Nguyễn Văn Đồng và Luật sư Hà Thị Khuyên, Văn phòng Luật sư Nhân Chính phân tích về việc tòa án có trách nhiệm xác minh, thu thập chứng cứ theo yêu cầu của kiểm sát viên. Công văn số 3854/VKSTC-V9 ngày 09/9/2024 Giải đáp vướng mắc về kiểm sát việc giải quyết vụ, việc dân sự, hôn nhân và gia đình. Giải đáp như sau: Trong trường hợp trên, nếu Viện kiểm sát nhận thấy do không xác minh, thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ nên không đủ cơ sở để giải quyết vụ án thì thực hiện theo khoản 5 Điều 23 Quy chế số 364/QĐ-VKSTC ngày 02/10/2017 về công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự như sau: “Kiểm sát viên tiếp tục tham gia phiên tòa, phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát nêu rõ việc chưa có đủ cơ sở để giải quyết vụ án vì thiếu những chứng cứ mà Kiểm sát viên đã yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập bổ sung”.

Viện kiểm sát yêu cầu Toà án xác minh, thu thập chứng cứ

Luật sư Nguyễn Văn Đồng và Luật sư Hà Thị Khuyên, Văn phòng Luật sư Nhân Chính phân tích về việc Viện kiểm sát yêu cầu Toà án xác minh, thu thập chứng cứ. Công văn số 3854/VKSTC-V9 ngày 09/9/2024 Giải đáp vướng mắc về kiểm sát việc giải quyết vụ, việc dân sự, hôn nhân và gia đình. Giải đáp như sau: Viện kiểm sát yêu cầu Toà án xác minh, thu thập chứng cứ theo quy định tại Điều 22 Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày 31/8/2016. Để thực hiện việc xác minh, thu thập chứng cứ theo yêu cầu của Viện kiểm sát trước khi mở phiên toà, Toà án có thể gia hạn thời hạn mở phiên toà theo khoản 4 Điều 203 BLTTDS (gia hạn 01 tháng); nếu vẫn chưa thực hiện xong việc xác minh, thu thập chứng cứ mà thời hạn mở phiên toà đã hết thì Toà án vẫn phải mở phiên toà và có thể quyết định tạm ngừng phiên toà, tạm đình chỉ giải quyết vụ án theo điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 259 BLTTDS.